Ngày đăng: 18/07/2024 | No Comments
Ngày cập nhật: 31/07/2024
Trong cuộc sống, con người luôn khát khao được thấu hiểu và kết nối với nhau. Tuy nhiên, do những khác biệt về hoàn cảnh sống, trải nghiệm cá nhân, văn hóa và nhiều yếu tố khác, chúng ta đôi khi gặp phải những rào cản trong việc thấu hiểu lẫn nhau. Hiện tượng này được gọi là “khoảng cách thấu cảm” Empathy Gap. Vậy Empathy Gap là gì? Hãy dành thời gian cùng Glints hiểu rõ hơn về vấn đề này trong bài viết hôm nay nhé!
Empathy Gap là gì? Empathy Gap là khoảng cách thấu cảm, đôi khi được gọi là thiên kiến thấu cảm, là sự suy giảm hoặc gián đoạn khả năng thấu cảm (khả năng nhận biết, hiểu và chia sẻ suy nghĩ, cảm xúc của người khác) trong những tình huống thông thường có thể xảy ra. khoảng cách thấu cảm có thể xuất hiện do quá trình thấu cảm bị gián đoạn hoặc là hậu quả của những đặc điểm tính cách lâu dài, phản ánh việc thiếu hụt năng lực hoặc động lực để thấu cảm.
Khoảng cách thấu cảm có thể diễn ra giữa các cá nhân (đối với người khác) hoặc trong chính bản thân mỗi người (đối với bản thân, ví dụ như khi dự đoán sở thích tương lai của mình). Nghiên cứu tâm lý xã hội đã dành nhiều sự chú ý cho khoảng cách thấu cảm giữa các nhóm, cơ chế tâm lý và thần kinh tiềm ẩn của chúng, và những tác động của chúng lên hành vi sau này (ví dụ như định kiến đối với thành viên nhóm ngoài).
khoảng cách thấu cảm xuất hiện trong nhiều tình huống khác nhau với nhiều dạng thức.
Khi đánh giá sai cảm xúc và hành vi của chính mình:
Khi đánh giá sai cảm xúc và hành vi của người khác:
Một ví dụ đáng chú ý về cách khoảng cách thấu cảm ảnh hưởng đến con người là việc đánh giá thấp tác động của các nhu cầu bản năng lên quá trình ra quyết định. Điều này bao gồm các yếu tố như đói, ham muốn, sợ hãi hoặc đau đớn. Nó xảy ra chủ yếu khi mọi người tin rằng họ sẽ hành động một cách lý trí và kiểm soát trong một tình huống nhất định, nhưng cuối cùng lại thất bại do ảnh hưởng của các nhu cầu bản năng mà họ không hề trải qua khi suy nghĩ về tương lai.
Theo đó, khoảng cách thấu cảm có thể khiến mọi người không chuẩn bị cho những tình huống bị chi phối bởi các nhu cầu bản năng, dẫn đến hành động thỏa mãn theo bản năng, ham muốn và thèm khát nhất thời, nhưng lại không giúp họ đạt được mục tiêu lâu dài hoặc hành động theo cách lý tưởng.
Ảnh hưởng của khoảng cách thấu cảm trong những trường hợp như vậy có thể mạnh mẽ đến mức mọi người thường tiếp tục tin rằng họ có thể xử lý một tình huống nhất định một cách thỏa đáng, ngay cả khi họ đã sai lầm lặp đi lặp lại về điều này trong quá khứ.
Đọc thêm: Lắng Nghe Thấu Cảm Là Gì? Kỹ Năng Mới Nhưng Không Kém Phần Quan Trọng
Những hạn chế trong khả năng thấu cảm nhận thức (hay còn gọi là “đặt mình vào vị trí người khác”) đôi khi có thể xuất phát từ việc thiếu hụt năng lực. Chẳng hạn, trẻ em thường gặp khó khăn trong việc đặt mình vào vị trí người khác (ví dụ như trong các bài kiểm tra niềm tin sai lầm) do khả năng nhận thức xã hội chưa phát triển đầy đủ. Ngoài ra, những cá nhân có sự khác biệt về thần kinh thường gặp khó khăn trong việc suy đoán trạng thái cảm xúc và nhận thức của người khác.
Thất bại trong thấu cảm nhận thức cũng có thể là kết quả của những thiên kiến nhận thức làm cản trở khả năng hiểu góc nhìn của người khác. Khả năng đặt mình vào vị trí người khác có thể bị hạn chế bởi trạng thái cảm xúc hiện tại của một người. Ví dụ, nghiên cứu kinh tế học hành vi đã mô tả một số trường hợp thất bại trong việc thấu cảm do ảnh hưởng của cảm xúc lên việc đặt mình vào vị trí người khác khi đưa ra dự đoán về các vấn đề xã hội.
Mọi người có thể không dự đoán chính xác sở thích và quyết định của chính mình (khoảng cách thấu cảm nội tâm) hoặc không cân nhắc đến việc sở thích của người khác có thể khác biệt với sở thích của mình như thế nào (khoảng cách thấu cảm giữa các cá nhân). Ví dụ, những người không sở hữu một món đồ nào đó thường đánh giá thấp mức độ gắn bó của họ với món đồ đó nếu họ sở hữu nó.
Trong những trường hợp khác, việc thiếu động lực có thể dẫn đến thất bại trong thấu cảm nhận thức. Ví dụ, mọi người thường ít có xu hướng đặt mình vào vị trí của thành viên nhóm ngoài mà họ không đồng ý.
Đọc thêm: Đồng Cảm Là Gì? 3 Cách Thể Hiện Sự Đồng Cảm Với Người Khác
Khoảng cách thấu cảm cảm xúc (hay cảm xúc) có thể mô tả những trường hợp mà người quan sát và đối tượng không trải qua những cảm xúc tương tự, hoặc khi người quan sát không trải qua những phản ứng cảm xúc dự kiến đối với đối tượng, chẳng hạn như sự đồng cảm và lòng trắc ẩn.
Một số khoảng cách thấu cảm cảm xúc nhất định có thể xuất phát từ khả năng hạn chế trong việc chia sẻ cảm xúc của người khác. Ví dụ, rối loạn nhân cách chống xã hội (psychopathy) được đặc trưng bởi những khiếm khuyết trong khả năng thấu cảm cảm xúc.
Con người có thể có động lực để tránh thấu cảm với cảm xúc của người khác do những chi phí về mặt cảm xúc khi làm như vậy. Chẳng hạn, theo mô hình thấu cảm của C.D. Batson, việc thấu cảm với người khác có thể dẫn đến sự quan tâm đồng cảm (tức là cảm giác ấm áp và quan tâm đến người khác) hoặc đau khổ cá nhân (tức là khi sự đau khổ của người khác gây ra đau khổ cho bản thân).
Xu hướng theo đặc điểm tính cách là trải qua đau khổ cá nhân (so với sự quan tâm đồng cảm) có thể khiến cá nhân tránh các tình huống đòi hỏi họ phải thấu cảm với người khác và thực sự dự báo giảm hành vi giúp đỡ người khác.
Não bộ con người có xu hướng dựa vào những thông tin quen thuộc, dễ hiểu hơn là tiếp thu một góc nhìn mới. Do đó, khoảng cách thấu cảm thường mặc định theo góc nhìn hiện tại, dẫn đến việc đưa ra quyết định dựa trên chính lăng kính hạn chế đó.
Đặt mình vào vị trí người khác hay nhìn nhận bản thân trong một bối cảnh khác là một quá trình khó khăn và không trực quan. Cảm giác mơ hồ và không tự nhiên này khiến chúng ta thường né tránh, thay vào đó ưu tiên những gì quen thuộc và cụ thể (ví dụ như cảm xúc hiện tại của chính mình).
Nghiên cứu cho thấy mức độ thấu cảm thường mạnh mẽ hơn đối với những người chúng ta yêu quý, và giảm dần khi định kiến về ai đó tăng lên. Khoảng cách thấu cảm lớn nhất giữa các thành viên của những nhóm khác nhau và nhỏ nhất giữa các thành viên trong cùng nhóm.
Hiện tượng này còn dễ dẫn đến những phán đoán vội vàng và thường sai lầm về người khác. Thay vì cân nhắc đến bối cảnh của họ, chúng ta lại lấy bản thân làm mốc tham chiếu. Chúng ta ước tính cách mình sẽ phản ứng hoặc đưa ra quyết định trong một tình huống cụ thể, rồi suy ra phản ứng hoặc quyết định của người khác cũng sẽ tương tự. Những câu biện hộ như “Bạn không hiểu đâu, nếu là bạn, bạn cũng sẽ làm vậy thôi” là một ví dụ điển hình.
Lý do chính khiến con người trải qua khoảng cách thấu cảm là do nhận thức của chúng ta phụ thuộc vào trạng thái. Điều này có nghĩa rằng cách chúng ta xử lý thông tin và đưa ra quyết định phụ thuộc rất nhiều vào trạng thái tinh thần của chúng ta tại thời điểm đó.
Ví dụ, khi đang no, chúng ta khó có thể dự đoán hành vi của mình khi đói, vì trạng thái tinh thần hiện tại quá khác biệt. Về cơ bản, trong ví dụ này, vấn đề nằm ở chỗ khó có thể tưởng tượng ra cảm giác thèm một thứ gì đó mà mình yêu thích, khi đang ở trạng thái tinh thần không có cảm giác thèm khát đó, đặc biệt là ngay sau khi thỏa mãn cơn thèm đó.
Nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho các tình huống khác. Chẳng hạn, khi tức giận về điều gì đó, chúng ta khó có thể tưởng tượng ra cách nhìn nhận của người không quan tâm đến vấn đề đó, bởi vì chúng ta đang ở trạng thái tinh thần khác biệt hoàn toàn so với họ, và vì chúng ta thường thấy khó điều chỉnh từ trạng thái tinh thần hiện tại để tính đến điều đó.
Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác dẫn đến khoảng cách thấu cảm, đóng vai trò trong các tình huống cụ thể. Ví dụ, khoảng cách thấu cảm đối với những người ngoài nhóm được cho là xuất phát từ nhu cầu thiết lập ranh giới xung quanh nhóm xã hội của mình, để kiểm soát việc tin tưởng và giúp đỡ ai.
Hơn nữa, một số yếu tố có thể làm tăng khả năng chúng ta trải qua khoảng cách thấu cảm trong những tình huống nhất định. Chẳng hạn, lo lắng có thể làm tăng khoảng cách thấu cảm đối với những người được cho là thuộc về một nhóm xã hội khác.
Nhìn chung, lý do chính khiến con người trải qua khoảng cách thấu cảm là do nhận thức của chúng ta phụ thuộc vào trạng thái, nghĩa là nó bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi trạng thái tinh thần hiện tại của chúng ta, điều này khiến việc đánh giá chính xác các trạng thái tinh thần khác hoặc dự đoán ảnh hưởng của chúng trở nên khó khăn. Ngoài ra, khoảng cách thấu cảm đôi khi còn có thể do những yếu tố bổ sung tác động, chẳng hạn như sự lo lắng gia tăng.
Lưu ý: Trong một số trường hợp, thuật ngữ “khoảng cách thấu cảm” được sử dụng theo nghĩa tổng quát hơn, để chỉ việc không thể thể hiện sự thấu cảm với người khác, hoặc không thể hiểu được quan điểm, suy nghĩ, cảm xúc hoặc hành vi của họ. Bên cạnh đó, một số yếu tố, bao gồm cả yếu tố cá nhân như mức độ thấu cảm sẵn có, yếu tố quan hệ như sự công bằng được cảm nhận và yếu tố văn hóa như sở thích về phân cấp xã hội, cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng thể hiện sự thấu cảm hoặc dạng khoảng cách thấu cảm tổng quát này của mọi người.
Dưới đây là cách giúp bạn khắc phục Empathy Gap, cụ thể:
Một cách để thu hẹp Empathy Gap là hình dung bạn sẽ cảm thấy thế nào khi bạn ở trong một trạng thái tinh thần khác so với hiện tại. Ví dụ, khi dự đoán hành vi tương lai của bản thân, thay vì chỉ cố gắng xác định bạn sẽ làm gì, trước tiên bạn cần cố gắng thực sự hiểu bạn sẽ cảm thấy thế nào và sẽ suy nghĩ ra sao.
Cách làm này khá hữu ích trong các tình huống khác, chẳng hạn như khi bạn cố gắng hiểu cảm xúc và hành vi của người khác. Bạn càng có thể đặt mình vào vị trí của họ và nhìn nhận vấn đề theo góc nhìn của họ, điều này giúp bạn giảm thiểu những ảnh hưởng của Empathy Gap.
Trong một số trường hợp, đặc biệt là khi cố gắng thu hẹp khoảng cách thấu cảm của người khác, việc giải thích các góc nhìn khác nhau so với góc nhìn mà người đó đang trải qua có thể có lợi.
Ví dụ, nếu ai đó đang thể hiện khoảng cách thấu cảm đối với người khác và không hiểu tại sao họ lại hành động theo cách đó, bạn có thể giải thích cho người đó lý do đằng sau những hành động đang đề cập, và cảm xúc của những người đó. Thêm vào đó, bạn có thể yêu cầu người đang thể hiện khoảng cách thấu cảm tự mình cố gắng giải thích những hành động đó, chẳng hạn như đưa ra một hoặc hai lý do tại sao những người đó có thể hành động theo cách như vậy.
Khi cố gắng tính đến khoảng cách thấu cảm để dự đoán hành vi của bản thân, đôi khi việc tưởng tượng người khác sẽ hành động như thế nào trong cùng hoàn cảnh có thể hữu ích.
Ví dụ, thay vì tự hỏi liệu bạn có thể kiên trì với một chế độ ăn kiêng nhất định, hãy tự hỏi người khác có khả năng duy trì chế độ ăn đó cao bao nhiêu trong cùng hoàn cảnh với bạn. Điều này có thể có lợi vì cho phép bạn phân tích tình huống một cách khách quan hơn và trung lập về mặt cảm xúc, do đó giảm thiểu khả năng dự đoán bị bóp méo bởi suy nghĩ theo cảm tính.
Đối với khoảng cách thấu cảm mà chúng ta gặp phải khi cố gắng dự đoán suy nghĩ, cảm xúc và hành vi tương lai, chúng ta thường bỏ qua quá khứ, mặc dù nó thường là một chỉ báo mạnh mẽ về cách chúng ta có khả năng suy nghĩ, cảm nhận hoặc hành động nhiều nhất.
Ví dụ, hãy cân nhắc tình huống bạn muốn kiên trì với chế độ ăn kiêng và một trong những mục tiêu của bạn là tránh ăn vặt không lành mạnh khi đang ở cơ quan. Tuy nhiên, bạn biết rằng mỗi ngày, vào khoảng trưa, bạn sẽ đi đến phòng giải lao để lấy cà phê và kết thúc bằng việc ăn thêm một trong những chiếc bánh ngọt tươi ngon mà họ để ở đó, nghĩa là bạn không thể duy trì chế độ ăn kiêng.
Vì Khoảng cách Thấu cảm là một sai lệch nhận thức mà chúng ta trải qua do cách thức hoạt động của hệ thống nhận thức, nó có thể được chống lại bằng cách sử dụng các kỹ thuật giảm thiên kiến tương tự được sử dụng để chống lại các sai lệch tương tự. Các kỹ thuật này bao gồm:
Empathy Gap là một hiện tượng tâm lý có thể ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng thấu hiểu và kết nối của chúng ta với người khác. Tuy nhiên, bằng cách nhận thức được sự tồn tại của nó và áp dụng các cách đã được thảo luận trong bài viết về empathy gap là gì, chúng ta có thể thu hẹp khoảng cách này và xây dựng những mối quan hệ bền chặt hơn. Hy vọng những chia sẻ trên của Glints sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Leave a Reply